Lê Vũ Huy
Sinh viên K59 Kinh tế Đối ngoại – Viện Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam
Nguyễn Hương Giang
Sinh viên K58 Kinh tế Đối ngoại – Viện Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt
Chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành một xu hướng chưa từng có ở các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là trong các ngành sản xuất. Nghiên cứu của chúng tôi xem xét cách các doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành sản xuất hưởng lợi từ việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Chúng tôi tổng hợp dữ liệu từ Cuộc khảo sát Doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê từ năm 2000 đến 2014 với dữ liệu về chuỗi giá trị toàn cầu từ TiVA OECD, sử dụng phương pháp kiểm soát hàm điều khiển để kiểm soát hiện tượng nội sinh trong việc tính toán chỉ số chuỗi giá trị toàn cầu. Các kết quả của chúng tôi cho thấy rằng các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành có sự tham gia ngược cao thường có năng suất thấp hơn. Các doanh nghiệp chuỗi giá trị toàn cầu tham gia cả xuất khẩu và nhập khẩu có lợi hơn từ kinh nghiệm quốc tế của họ so với các doanh nghiệp chỉ tham gia xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Chúng tôi khám phá ra rằng cách tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu tác động đến lợi ích từ việc liên kết ngược, trong đó các doanh nghiệp tham gia cả chế độ xuất khẩu và nhập khẩu thể hiện lợi ích lớn hơn từ sự tham gia ngược so với các doanh nghiệp chỉ tham gia xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Điều này ngụ ý về một chính sách thương mại được thiết kế tốt cho liên kết ngược, trong đó chính phủ nên khuyến khích phát triển chuỗi cung ứng nội địa và giảm sự phụ thuộc vào các nguồn cung từ các đối tác nước ngoài
Từ khóa: Chuỗi giá trị toàn cầu, Hiệu suất doanh nghiệp, Liên kết ngược, Việt Nam
Abstract
Global value chains have become an unprecedented trend in emerging countries, especially for manufacturing sectors. Our study examines how Vietnamese firms in manufacturing sectors gain from GVC participation. We compile data from GSO Survey Enterprise from 2000 to 2014 with GVC data from TiVA OECD using control function approach controlling endogeneity in GVC indicator calculation. Our findings indicate that firms operating in sectors with high backward participation tend to have lower productivity. GVC firms that engage in both export and import are more beneficial from their international experience compared to only exporters or importers. We explore that the mode of GVC participation moderates the gains from backward linkage, in which firms engaging in both exports and imports mode exhibit larger gains from backward participation than firms only engaging in exports or imports. It implies a well-designed trade policy for backward linkage in which the government should encourage the development of domestic chains and lower reliance on inputs supplied from foreign partners.
Keywords: Global value chain, Firm performance, Backward linkage, Vietnam